Nhận định Quang_Trung

  • Tác giả Tạ Chí Đại Trường tổng kết rằng Nguyễn Huệ nhận được lời khen ngợi của không chỉ những người bầy tôi dưới quyền mà ngay cả của "đám thù nghịch từng chịu điên đảo vì ông" cũng phải khen ngợi ông[138]
  • Nhà sử học Trần Trọng Kim viết năm 1920, trong tác phẩm Việt Nam sử lược đã đánh giá cụ thể rằng: xét riêng với Nhà Nguyễn thì vua Quang Trung là kẻ địch (vì ông đã đánh đổ Chúa Nguyễn), nhưng xét về công lao với đất nước, với dân tộc thì vua Quang Trung là một anh hùng sánh ngang với vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Thái Tổ:
Lúc ấy anh em Nguyễn Nhạc là người dân mặc áo vải, dấy binh ở ấp Tây Sơn, chống nhau với Chúa Nguyễn để lập nghiệp ở đất Quy Nhơn. Tuy rằng đối với họ Nguyễn là cừu địch, nhưng mà đối với nước Nam, thì chẳng qua cũng là một người anh hùng lập thân trong lúc biến loạn đó mà thôi. Còn như Nguyễn Huệ là vua Thái Tổ Nhà Nguyễn Tây Sơn, thì trước giúp anh bốn lần vào Gia Định đều được toàn thắng, phá hai vạn quân hùm beo của Xiêm La, chỉ còn được mấy trăm người lủi thủi chạy về nước; sau lại ra Bắc Hà, dứt họ Trịnh, tôn vua Lê, đem lại mối cương thường cho rõ ràng. Ấy là đã có sức mạnh mà lại biết làm việc nghĩa vậy.

Sau vua Chiêu Thống và bà Hoàng Thái Hậu đi sang kêu cầu bên Tàu, vua Nhà Thanh nhân lấy dịp ấy mượn tiến cứu Nhà Lê, để lấy nước Nam, bèn sai binh tướng sang giữ thành Thăng Long. Bấy giờ cứ theo như tờ mật dụ của vua Nhà Thanh thì nước Nam ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng kỳ thật đã vào tay người Tàu rồi. Vậy nước đã mất, thì phải lấy nước lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng Đế, truyền hịch đi các nơi, đường đường chính chính, đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu, tướng Nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp sợ, tướng sĩ Nhà Thanh thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy.

Vả đánh đuổi người Tàu đi lấy nước lại mà làm vua thì có điều gì mà trái đạo? Há lại chẳng hơn Nhà Lý, Nhà Trần nhân lúc ấu quân, nữ chúa, mà làm sự thoán đoạt hay sao? Vậy thì lấy lẽ gì mà gọi là ngụy? Huống chi sau vua Nhà Thanh cũng công nhận cho ông Nguyễn Huệ làm vua nước Nam, và lại sai sứ sang phong cho ông làm An Nam Quốc vương theo như lệ các triều trước, như thế thì Nhà Nguyễn Tây Sơn mở nước có khác gì Nhà ĐinhNhà Lê không?

Tuy rằng chẳng được bao lâu Nhà Nguyễn Tây Sơn sinh ra nội loạn, vua Thế Tổ Cao Hoàng Nhà Nguyễn lại thu phục được cơ nghiệp cũ mà nhất thống cả nam bắc lại làm một, nhưng việc thành bại hưng vong là mệnh trời, vả lại khi hai người anh hùng đuổi một con hươu, tất là người nọ gọi người kia là cừu địch. Vậy lấy lẽ tôn bản triều (Nhà Nguyễn) mà xét thì Nhà Nguyễn Tây Sơn là ngụy, nhưng lấy công lý mà suy thì vua Quang Trung Nguyễn Huệ là một ông vua cùng đứng ngang vai với vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Thái Tổ... vậy.

  • Khi biết tin vua Quang Trung qua đời (1792), tại sân điện vua Nhà Thanh, tướng Võ Văn Dũng đã ngất đi. Khi tỉnh dậy, ông đã làm ngay một bài thơ tiếc thương nhà vua đã mất khi còn khá trẻ, rằng nếu Quang Trung sống thêm được 10 năm thì sự nghiệp của ông sẽ không kém những Đường Thái Tông, Tống Thái Tổ:
Bố y phấn tích ngũ niên trungKim cổ thi vi sự bất đồngThiên vị ngô hoàng tăng nhất kỷBất ư Ðường, Tống thuyết anh hùng.Năm năm dấy nghiệp tự thôn nôngThời trước, thời sau khó sánh cùngTrời để vua ta thêm chục tuổiAnh hào Ðường, Tống hết khoe hùng
Nguyễn Huệ là kẻ phi thường
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu.
Ông đã chí cả mưu cao,
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
Cho nên Tàu dẫu làm hung,
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.
— Hồ Chí Minh[139]

So sánh với đối thủ là Nguyễn Ánh

Trên Tạp chí Sông Hương số 175 tháng 9 năm 2003, tác giả Trần Cao Sơn so sánh Nguyễn Huệ với đối thủ của ông là Nguyễn Ánh:

Nguyễn Huệ đại diện cho giai cấp cần lao. Nguyễn Ánh thuộc dòng dõi quý tộc.

Nguyễn Huệ dấy binh khởi nghĩa vì quyền lợi và hạnh phúc của lê dân đang rên xiết dưới ách thống trị hà khắc của chế độ phong kiến Đàng TrongNguyễn Ánh cũng là một đại diện. Nguyễn Ánh lại đấu tranh vì quyền lợi của dòng tộc và cá nhân.

Nguyễn Huệ muốn đập tan các thế lực cát cứ để đưa giang sơn về một mối. Nguyễn Ánh lo bảo vệ cho chế độ Chúa Nguyễn Đàng Trong của mình.

Chiến công hiển hách mà Nguyễn Huệ Quang Trung tạo dựng được là đánh tan các thế lực ngoại bang xâm lược, giữ vững độc lập, mang lại niềm tự hào cho dân tộc; tiêu diệt và xoá bỏ được các thế lực cát cứ, phân quyền duy trì hàng thế kỷ.

Nguyễn Huệ đặt độc lập đân tộc lên trên hết. Thù trong được đặt sau giặc ngoài. Vì vậy khi quân Xiêm La xâm lược, việc trước tiên của ông là đánh tan quân xâm lược Xiêm. Khi quân Thanh tràn sang, ông đã gạt bỏ mọi lực cản, lên ngôi Hoàng đế, thống nhất nhân tâm và lực lượng, thần tốc hành quân ra bắc đại phá quân Thanh, bảo vệ độc lập cho tổ quốc. Nguyễn Ánh chỉ biết lo cho quyền lợi cá nhân, cầu cứu quân Xiêm sang giúp đánh Tây Sơn... giúp lương thảo cho quân Thanh (khi nghe tin quân Thanh tiến vào Thăng Long cuối năm 1788)...

— Trần Cao Sơn[140]

Theo tác giả K.W Taylor: Mặc dù Bình Định không có tài nguyên để trở thành một trung tâm đủ sức khống chế các vùng khác trong bất kì thời gian dài nào, nhưng nó cũng bộc lộ một cái nhìn khu vực về vấn đề làm người Việt. Nó sản sinh là một nhân vật, Nguyễn Huệ, người dẫn quân từ lãnh thổ này sang lãnh thổ khác và đã cố tìm cách thống nhất mọi khu vực của người Việt dưới uy quyền của ông. Việc ông thất bại thường được quy cho là vì cái chết bất ngờ của ông. Nhưng có lẽ người ta đã không dành đủ sự chú ý cho câu hỏi làm thế nào viễn kiến khu vực của Bình Định đã có thể định hình tham vọng của cả ông và những người kế vị yếu kém, và khiến họ dễ bị đe dọa bởi một đối thủ có một viễn kiến khu vực khác. Chừng nào một sức mạnh quân sự tự nguyện và chuỗi dài thắng trận còn là bí quyết giúp có quyền lực chính trị, viễn kiến của Bình Định có thể chiếm ưu thế. Nhưng khi đối diện với một đối thủ đã thua trận liên tục nhưng luôn đứng dậy, một đối thủ có tầm nhìn chiến dịch lâu dài chứ không chỉ một trận đánh, một đối thủ xem thành công không phải nhờ giao tranh mà là kết quả của tổ chức, rèn luyện, huy động tài nguyên, chuẩn bị, hoạch định và chờ đợi, chờ đợi, chờ đợi, thiên tài Tây Sơn, đứng trước một đối thủ như thế, bỗng chỉ trở thành một sự gan dạ cấp tỉnh. Và đối thủ này xuất hiện từ đâu? Từ Nam Bộ.[141]

Người ta còn truyền khẩu câu chuyện đối đáp, khi nữ tướng Bùi Thị Xuân bị bắt, Nguyễn Ánh bèn sai người áp giải bà đến trước mặt rồi hỏi với giọng đắc chí: "Ta và Nguyễn Huệ ai hơn?". Bùi Thị Xuân trả lời:

Chúa công ta (chỉ Nguyễn Huệ), tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà ngươi thì đi cầu viện ngoại bang, hết quân Xiêm đến quân Tàu làm tan nát cả sơn hà, cũng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua chỉ là nước vũng so với ao trời. Còn nói về đức độ, thì Tiên đế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế, như đã đối với Nguyễn Huỳnh Đức, bề tôi của nhà ngươi. Còn ngươi lại dùng tâm của kẻ tiểu nhân mà đối với bậc nghĩa liệt, đã hết lòng vì chúa, chẳng nghĩ rằng ai có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người cũng là khuyến khích tôi trung của mình. Chỗ hơn kém rõ ràng như ban ngày và đêm tối. Nếu Tiên đế ta đừng thừa long (qua đời) quá sớm, thì dễ gì nhà ngươi trở lại đất nước này.[142]

Về tư tưởng kinh tế, Quang Trung cũng có những nét tiến bộ hơn so với Nguyễn Ánh. Vua Quang Trung khuyến khích nhân dân giao thương buôn bán với nước ngoài, trong khi Nguyễn Ánh lại tìm cách hạn chế và ngăn cấm. Các thương nhân nước ngoài đến buôn bán tại Việt Nam đã có sự so sánh về chính sách thương mại của Quang Trung với Nguyễn Ánh. Thương nhân người Anh là Crafurd khi đến Việt Nam năm 1822, dẫn lại lời các Hoa kiều từng sống ở Huế dưới thời Tây Sơn cho rằng: anh em Tây Sơn cai trị ôn hòa và công bằng hơn so với Nguyễn Ánh[4].

Tài năng quân sự

Quang Trung – Nguyễn Huệ là hoàng đế bách chiến bách thắng, lập nhiều chiến tích quân sự nhất trong lịch sử Việt Nam. Cả cuộc đời binh nghiệp của ông, dù dưới danh hiệu Long Nhương tướng quân[e], Bắc Bình Vương hay hoàng đế Quang Trung, ông đều lập công trạng hiển hách, chưa từng thất bại một trận nào.[111] Do những chiến tích vang dội, Nguyễn Huệ được các giáo sĩ Tây phương so sánh với Alexandros Đại đế[143]Attila.[144]

Chính sử của Nhà Nguyễn cũng phải thừa nhận:

"...quân Xiêm (từ sau khi thua trận Rạch Gầm - Xoài Mút) tuy ngoài miệng thì nói khoác nhưng trong bụng thì sợ Nguyễn Huệ như sợ cọp."

Sách Đại Nam thực lục của Nhà Nguyễn chép lại lời tâu của bề tôi Nguyễn Ánh về Tây Sơn:

"Kẻ kia, Nhạc, Huệ, anh em từ dân áo vải, không tấc đất cắm dùi, vươn tay hô một tiếng, người theo có cả vạn, chẳng đầy 5-6 năm mà có được nước. Họ không có tài đức hơn người thì vì lẽ gì mà lại hưng thịnh dữ dội như vậy?"[145].

Sử quan nhà Nguyễn là Trần Trọng Kim năm 1920 cũng phải khen ngợi chiến tích thần tốc đánh bại quân Thanh của Quang Trung:

ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng Đế, truyền hịch đi các nơi, đường đường chính chính, đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp sợ, tướng sĩ nhà Thanh thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy.

Gras de Préville, thuyền trưởng tàu Pandour của Pháp ở Gia Định năm 1788 đã viết về Nguyễn Huệ và quân đội của ông như sau:

"Tây Sơn rất mạnh; quân đội của Nguyễn Huệ nếu không thiện chiến cũng rất đông; Nguyễn Huệ có voi để kéo pháo, và hơn nữa, Nguyễn Huệ có rất nhiều thuyền chiến, chiến hạm và tàu thuyền để chở quân đội. Nguyễn Huệ có nghị lực, có tài năng..."[146]

Gần như toàn bộ chiến thắng của Nhà Tây Sơn đều gắn với tên tuổi ông. Những chiến công nổi bật nhất của Nguyễn Huệ:

Tài năng chính trị

Trần Trọng Kim trong tác phẩm Việt Nam sử lược viết năm 1920, dù là quan Nhà Nguyễn nhưng đã dành riêng một chương về vua Quang Trung để ca ngợi ông:

Vua Quang Trung là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài cũng độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra lấy Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng và nhất là đối với một người xử sĩ như Nguyễn Thiệp thì thật là khác thường.

Đối ngoại

Đối với việc Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc Hà đánh họ Trịnh chuyên quyền, ông dùng khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh" để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Bắc Hà. Khi diệt được họ Trịnh, ông vẫn tôn thờ vua Lê. Việc làm đó được sử gia Trần Trọng Kim nhận định "Ấy là đã có sức mạnh mà đã biết làm việc nghĩa vậy"[147].

Cũng theo sử gia Trần Trọng Kim: "vì vua Nhà Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau mà chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán loạn. Dẫu thế mặc lòng, khi Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt Nhà Lê, đặt Giám Quốc để giữ tông miếu tiền triều; như thế thì cách ở với Nhà Lê không lấy gì làm bạc".[147]

Ngay sau khi đại phá quân Thanh ở Trận Ngọc Hồi – Đống Đa, vua Quang Trung tìm cách xóa bỏ thù hằn bằng việc chiêu hàng, nuôi dưỡng hàng vạn tù binh nhà Thanh và thu dọn, cúng tế chiêu hồn quân Thanh;[148] thực thi chính sách hòa giải với cường quốc phương Bắc và triều cống, xin phong Vương. Bằng một kế sách ngoại giao khôn khéo, mua chuộc được các cận thần nhà Thanh (Phúc Khang An, Hòa Thân...), Nguyễn Huệ đã được vua Thanh chấp nhận cầu phong để nhà Tây Sơn chính thức thay thế nhà Lê làm chủ Đại Việt.[149]

Đối nội và những cải cách

Ở trong nước, Quang Trung đã cho thi hành nhiều cải cách quan trọng[150]:

  • Về quân sự, ở mỗi trấn, vua Quang Trung cho đặt quan trấn thủ và quan hiệp trấn. Mỗi huyện, văn thì đặt chức phân tri để xét việc kiện cáo, võ thì đặt chức phân suất để coi việc binh lương. Quân đội chia làm 5 doanh: trung, tiền, hậu, tả, hữu. Ngoài ra còn có thêm một số quân hiệu khác như tả bật, hữu bật, kiều thanh, thiên cán. Quân đội được trang bị hiện đại, vũ khí có nhiều loại, có loại được cải tiến như hỏa hổ (một loại ống phun lửa), có cả súng trường, đại bác. Hải quân Tây Sơn rất mạnh với nhiều loại tàu chiến, loại lớn chở được cả voi, trang bị từ 50 đến 60 khẩu đại bác, chở được từ 500 đến 700 lính.
  • Về nông nghiệp, ông cho cải cách chế độ đinh điền và ruộng đất. Năm 1789, Quang Trung bãi bỏ thuế điền cho nhân dân từ sông Gianh ra Bắc, động viên nhân dân lao động sản xuất. Chỉ trong vòng 3 năm sau, nông nghiệp được phục hồi. Năm 1791, "mùa màng trở lại phong đăng, năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình"[151].
  • Về công thương nghiệp, Quang Trung khuyến khích đẩy mạnh sản xuất thủ công nghiệp, mở rộng ngoại thương, phát triển mọi ngành sản xuất nhằm xây dựng một nền kinh tế phồn vinh, tự chủ trong đó có công thương nghiệp. Đối với thuyền buôn của các nước phương Tây, Quang Trung tỏ ra rộng rãi, mong muốn họ tăng cường quan hệ ngoại thương với Việt Nam, nhờ vậy tình hình thương nghiệp thời Quang Trung được phục hưng và phát triển. Tư tưởng thông thương tiến bộ của Quang Trung đã thể hiện nhãn quan kinh tế rộng mở, phù hợp với xu thế phát triển "mở cửa ải, thông thương buôn bán, khiến cho các hàng hoá không ngừng đọng để làm lợi cho dân chúng".
  • Về giáo dục, Quang Trung đã ban hành chính sách "khuyến học", trường học được mở rộng đến các làng xã, cho phép các địa phương sử dụng một số đền chùa không cần thiết làm trường học. Về nội dung, bỏ lối học thuộc theo khuôn sáo, cải tiến dần theo hướng thiết thực, bắt các nho sinh, sinh đồ ở các triều đại trước phải thi để đánh giá lại, còn danh hiệu sinh đồ quan do bỏ tiền ra mua trước đó (thời Lê – Trịnh) đều bị loại bỏ. Nhà vua muốn rằng người Việt Nam thì phải dùng tiếng Việt Nam, để gây dựng tinh thần của nước nhà, và văn chương Việt Nam không phải đi mượn tiếng mượn chữ của nước Tàu. Vậy nên khi thi cử, ông thường yêu cầu quan ra bài chữ Nôm và bắt sĩ tử làm bài bằng chữ Nôm.
  • Về văn hóa, Vua Quang Trung thấy làng nào cũng có chùa chiền, nhiều người đi tu hành chỉ mượn tiếng thần thánh mà lừa bịp người dân, nên ông xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng, đem gỗ gạch làm ở mỗi phủ huyện một chùa thật to đẹp, rồi chọn lấy những tăng nhân có học thức, có đạo đức coi chùa thờ Phật. Còn những người không xứng đáng thì bắt hoàn tục về làm ăn. Vua Quang Trung muốn rằng chỗ thờ Phật phải tôn nghiêm, những người đi tu hành thì phải chân tu mộ đạo, như vậy mới dẹp bỏ được mê tín dị đoan và giáo hóa tốt cho người dân.

Nhà sử học Phan Huy Lê đã đánh giá chính sách cải cách của Quang Trung “nếu được thực hiện triệt để trong thời gian dài, nhất định sẽ mang đến những thành tựu to lớn và sẽ mở ra những kĩ năng phát triển mới, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đình trệ kéo dài của chế độ phong kiến”[152]

Những cải cách của Quang Trung có nhiều mặt tích cực, đã đưa đất nước nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng sau chiến tranh kéo dài. Tuy nhiên, những chính sách cải cách của Quang Trung chỉ được thực hiện chưa đầy 3 năm thì ông đã qua đời. Con ông là Quang Toản còn quá nhỏ tuổi nên bất lực, không tiếp tục thực hiện được những cải cách đó. Sau này, khi tiêu diệt được nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn của Nguyễn Ánh đã xóa bỏ phần lớn những cải cách này.

Quyền biến

Trong thời loạn lạc của Nguyễn Huệ cuối thế kỷ XVIII, một trong những thời kỳ rối ren, nhiều bè phái và phân liệt nhiều nhất trong lịch sử Việt Nam, ngoài tàn dư của các lực lượng tồn tại lâu đời, trong quá trình tranh chấp giữa các phe phái còn nhiều phần tử nảy sinh ý đồ xưng hùng xưng bá trước những cơ hội do hoàn cảnh mang lại, nhất là khi địa bàn kiểm soát của ông nằm giữa hai vùng Nam BộBắc Bộ, đất kiểm soát của các lực lượng chống đối. Nguyễn Huệ, trong quá trình đánh Nam dẹp Bắc cũng phải đối phó với những tư tưởng ly khai của các tướng lĩnh dưới quyền, song ông luôn có cách xử lý chứng tỏ bản lĩnh của một chính trị gia già giặn.

Đối với Nguyễn Huệ, ai chưa theo, chưa phục, ông để người ta suy nghĩ kỹ (Nguyễn Thiếp ban đầu chưa chịu ra làm việc với ông nhưng rồi chấp thuận sau khi suy ngẫm lại). Nếu cuối cùng vẫn không theo thì Nguyễn Huệ vẫn để họ sống chứ không đe dọa hoặc bắt giữ (ví dụ như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều,...). Ông cũng sẵn sàng thu dụng cả tướng địch bị bắt và tôn trọng lòng trung thành của họ với chủ cũ (ví dụ như trường hợp của Nguyễn Huỳnh Đức). Vậy có thể nói Nguyễn Huệ là một người bao dung, một đức tính lớn của một vị vua.

Biết Nguyễn Hữu Chỉnh là người dễ thay lòng đổi dạ nhưng Nguyễn Huệ vẫn tận dụng tài năng, mưu lược và sự thông thạo đất Bắc Hà của Nguyễn Hữu Chỉnh để đánh đổ Chúa Trịnh. Đánh xong họ Trịnh, ông không thẳng tay giết Nguyễn Hữu Chỉnh mà mượn tay các thế lực thân họ Trịnh cũ (những người đó oán Chỉnh) để giết Nguyễn Hữu Chỉnh bằng việc cùng vua anh Nguyễn Nhạc âm thầm rút quân về Nam, bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại.

Tới khi Nguyễn Hữu Chỉnh lẽo đẽo chạy theo kịp, Nguyễn Huệ không thể bỏ mặc, bèn lưu lại ở Nghệ An cho trấn thủ, chờ biến cố. Lúc Nguyễn Hữu Chỉnh "Phù Lê" đánh được Trịnh Bồng, ra mặt chống Tây Sơn với việc sai người vào Phú Xuân đòi ông giao trả đất Nghệ An, ông mới công khai cử binh đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh bị diệt nhanh chóng.

Vũ Văn Nhậm tiếp quản Thăng Long từ tay Nguyễn Hữu Chỉnh cũng nảy ý xưng hùng – chuyên quyền và tự ý đúc ấn riêng. Lúc đó, Nguyễn Huệ đã điều bớt binh cho Vũ Văn Nhậm và phải đề phòng mặt Nam, nên không thể dàn quân đi đánh Vũ Văn Nhậm như đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Ông lặng lẽ đi gấp ra Bắc và lập tức trừ khử Vũ Văn Nhậm.

Hai viên tướng tài có ý đồ chống lại bị loại trừ với những lý do chính đáng bằng những cách thức khác nhau, khó lường trước. Các tướng bên dưới như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lập tức được đôn lên thay trọng trách. Việc Nguyễn Huệ khiển tướng điều binh khiến các tướng lĩnh tâm phục và từ đó không còn ai mang ý đồ cát cứ.

Tài cai trị

Không chỉ là một viên tướng thiện chiến, Quang Trung còn là một nhà cai trị tài ba. Ông giỏi chiến thuật quân sự, giỏi về chiến lược ngoại giao và lại biết thu dụng nhân tài để xây dựng đất nước. Trong ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Huệ không chỉ trội hơn về tài năng quân sự mà ngay cả trong việc trị nước, ông cũng tỏ ra là người xuất sắc nhất. Sau là một vài lời nhận xét về công cuộc cai trị của Quang Trung:

"Ông không chỉ là cầm quân mà còn là nhà cai trị rất giỏi... Đồn binh vững vàng khắp đường sông, cửa biển; kỷ luật nghiêm minh, đồng thời lại rất nhân từ với nhân dân..."
— Legrand de la Liraye trong tác phẩm Notes historiques sur la nation annamite (Bút ký lịch sử về dân tộc An Nam)[153]
"sáng đẹp hơn ngũ đế, lòng nhân hiếu cảm động đến trời... với các sĩ phu thì cuốn vào máy, thu vào lồng, tìm trong hang núi, hỏi chốn thôn quê, hái chẳng sót loài cỏ mọn".
— Ngô Trọng Khuê, một đại thần cũ Nhà Hậu Lê, trước chối từ lời mời của Quang Trung[154]
Vua Quang Trung Nhà Nguyễn Tây Sơn[d] là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra đất Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng và nhất là đối với một xử sĩ như Nguyễn Thiệp thì thật khác thường.
— Trần Trọng Kim[155]

Nguyễn Ánh đã trải qua những nguy hiểm tày núi, cái chết cận kề, thế rồi ông lại thoát... Nguyễn Huệ không được cái may mắn này khi tử thần đã bất ngờ nắm lấy mệnh ông ở tuổi ngoài bốn mươi đầy sung mãn với những triển vọng huy hoàng đang chờ phía trước.

Những chiến công của Nguyễn Huệ to lớn đến vậy, những cuộc vây ráp của ông với quân Nguyễn Ánh cũng rất quy mô và bài bản suốt hàng chục lần, nhưng rồi cuối cùng vẫn không đạt được mục tiêu. Nguyễn Ánh vẫn thoát. Những truyền thuyết dân gian như Nguyễn Ánh có trời giúp, nổi phong ba ngăn chặn Tây Sơn; hay rắn thần xuất hiện đưa ông đến nơi an toàn trong lúc lâm nguy trên đảo Thổ Châu... được lưu truyền tận về sau cũng xuất phát từ những sự thật kỳ diệu đến mức khó tin này... Đáng tiếc cho phong trào Tây Sơn và cũng là cho cả dân tộc, Nguyễn Huệ đã ra đi đột ngột và lịch sử bước sang một giai đoạn mới, đó là Nguyễn Ánh quyết định vai trò trên sân khấu lịch sử.

Nguyễn Huệ trồng cây. Gia Long hái quả. Âu cũng là mệnh trời.

Từ cái chết của Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh là kẻ thù biết chiếm đoạt toàn bộ thành quả do Nguyễn Huệ làm nên và biết đưa nó đến đích, mặc dù chỉ là giải quyết những bước cuối cùng - thống nhất sơn hà.

— Trần Cao Sơn[156]

Sự ra đi của Nguyễn Huệ là tổn thất không thể bù đắp và là điều không may cho Nhà Tây Sơn. Cơ nghiệp ông để lại không được người thừa kế xứng đáng bảo tồn, nên đã nhanh chóng mất về tay Nguyễn Ánh. Cái chết đột ngột của ông khiến đời sau còn tiếc cho nhiều dự định lớn lao chưa thành hiện thực.

Dù sau này Nhà Nguyễn tìm nhiều cách để bôi nhọ và xóa bỏ những chứng tích liên quan tới Nguyễn Huệ nói riêng và Nhà Tây Sơn nói chung, nhưng tên tuổi ông không hề bị mai một. Người Việt Nam ghi nhận ông là người anh hùng áo vải dân tộc, là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Quang_Trung http://www.bbc.com/vietnamese/forum-42559234 http://www.britannica.com/EBchecked/topic/486096 http://www.thuvienbinhdinh.com/diachi/uniisis.asp?... http://www.thuvienbinhdinh.com/diachi/uniisis.asp?... http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/HXH... http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/HXH... http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/hoa... http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb12345095h http://data.bnf.fr/ark:/12148/cb12345095h http://vietsciences.free.fr/vietnam/danhnhan/vua/q...